Hướng dẫn cách chữa trị các loại bệnh ở gà hay gặp nhất
Gà bị bệnh thường ủ rũ, xù lông, tiêu chảy nặng, phân màu vàng trắng, lông xung quanh đít bết lại. Gà đang đẻ giảm hẳn hoặc ngừng đẻ.
Hướng dẫn cách chữa trị cách loại bệnh hay gặp ở gà có thể bạn chưa biết hay tham khảo những cách chữa sau nhé.
Bệnh Gumboro (Infections bursal disease – IBD)
Là bệnh truyền nhiễm lây lan cấp tính do vurus thuộc họ Birnaviridae gây ra ở gà non làm viêm túi bạch huyết (fabricius) ở phía trên phao câu gà. Bệnh hay xảy ra ở gà con 3-6 tuần tuổi, có thể sớm muộn hơn tuỳ theo điều kiện dịch tễ ở từng địa phương.
Virus gây bệnh Gumboro tồn tại rất lâu trong điều kiện tự nhiên, trong thức ăn, nước uống, trong phân sống đến 52 ngày, ở nhiệt độ 25oc sống 21 ngày, ở -20oc sống trong 3 năm, trong huyễn dịch của túi bạch huyết -50oc virus giữ độc lực trong 18 tháng. Khoa học đã phân lập được virus Gumboro~ trong con mọt thức ăn lấy ở trại gà bệnh trước đó một năm. Sau khi nhiễm virus 24-48 giờ gà phát bệnh đột ngột hàng loạt rất dễ nhầm với ngộ độc thức ăn. Gà bị bệnh do tiếp xúc với gà ốm, qua thức ăn, nước, thiết bị dụng cụ chăn nuôi, chim chóc và nhất là người chăn nuôi làm lây bệnh.
Virus cường độc xâm nhập vào túi fabricius và các bộ phận có chức năng miễn dịch huỷ hoại tế bào lympho B và đại thực bào gây “hiện tượng giảm miễn dịch” ở gia cầm. Hệ miễn dịch bị tổn thương, gà mất khả năng sản sinh kháng thể chống bệnh ngay cả khi được tiêm phòng các bệnh khác như Newcastle, Marek… Do vậy, gà bị bệnh Gumboro kèm theo phát ra bệnh thứ phát khác. ở các trại gà giống thì gà bố mẹ cần phải được tiêm phòng vacxin Gumboro vào 19 tuần tuổi, lúc chuẩn bị đẻ. Kháng thể chống bệnh này từ gà mẹ truyền qua trứng sang gà con, do vậy gà con nở ra đã có miễn dịch cho đến sau 3-4 tuần tuổi (điều này giải thích lý do gà thường bị Gumboro vào 3-6 tuần tuổi).
– Triệu chứng: Gà bệnh ỉa chảy, phân màu vàng nhạt, đi lại khó khăn, lông xù, bỏ ăn nhanh, ủ rũ, một số con mổ cắn nhau vào vùng hậu môn. Sau 1-2 ngày phát bệnh gà bắt đầu chết và chết cao . Vào ngày thứ 3, thứ 4. Tỷ lệ chết nhiều ít phụ thuộc vào sự chăm sóc nuôi dưỡng đàn gà. Tỷ lệ gà nhiễm bệnh lên đến 80%, có đàn cả đàn, chết 5-30%. Gà con suy giảm miễn dịch kéo dài, chậm lớn, giảm khả năng phòng chống đối với các bệnh khác.
– Bệnh tích: Gà chết gầy khô do bị mất nước nhiều, diều lép, cơ lườn nhợt nhạt. Xuất huyết từng đám lấm tấm ở lườn, đùi, cánh, còn thấy ở cả tim, dạ dày, tuyến tụy, tim, ruột trực tràng và van hồi manh tràng, thận sưng to. Đặc biệt là túi fabncius stmg to lên gấp 2-3 lần, trong túi có dịch lầy nhầy, sánh đục vàng lẫn máu, có thể có những mảnh bã đậu khi bệnh nặng. Khi bệnh không thể hiện triệu chứng bên ngoài đã thấy túi fabricius bị thương tổn.
Phòng chữa: Chưa có thuốc đặc hiệu.
Có bệnh là phải thực hiện: Cách ly, bao vây khu vực chăn nuôi; Loại gà bệnh quá yếu; Cho cả đàn uống 1 liều kháng sinh Synaria hoặc neotesol hoặc Tetracyclin; Bổ sung vitamin C, K và các loại khác (Phylasol, Solminvit, Tesgovit).
– Phòng bệnh: Nhận mua giống ở nơi an toàn dịch; Dùng vacxin Gumboro nhược độc cho gà con theo lịch tiêm phòng, tiêm vacxin vô hoạt cho gà bố mẹ trước khi lên đẻ từ 4-6 tuần; Chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính (mycoplasmosis – CRD – Chronic Respiratory desease)
Là bệnh truyền nhiễm lây lan mãn tính ở gà, gà tây và một số loại gia cầm khác. Thường gọi tắt là bệnh CRD, triệu chứng bệnh tích đường hô hấp, nổi rõ ở túi khí, do virus Mycoplasma gallisepticum gây ra.
Gà 2- 12 tuần tuổi và gà sắp đẻ dễ nhiễm bệnh này hơn các lứa tuổi khác, thường hay phát bệnh vào vụ đông quân khi có mưa phùn, gió mùa, độ ẩm không khí cao, có thể gọi là “bệnh thời tiết”.
Bệnh lan truyền dọc từ đời mẹ đến đời con qua trứng, từ gà bệnh sang gà khoẻ qua tiếp xúc, qua thức ăn nước uống, dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc . . . bị nhiễm. Gà ốm đã khỏi bệnh vẫn có thể còn thải vi khuẩn ra môi trường.
– Triệu chứng: Gà con và gà dò bị bệnh hắt hơi, viêm kết mạc, chảy nước mắt, ít dịch thanh mạc ở lỗ mũi và mi mắt. Nhiều con mí mắt sưng tấy và dính vào nhau. Thở khò khè có tiếng ran khí quản dễ phát hiện vào buổi đêm yên tĩnh. Đêm đến, đi qua chuồng gà con, gà dò, gà đẻ bị bệnh nghe rõ tiếng ran khí quản…. Gà xù lông, thở khó bỏ ăn. Bệnh kéo dài làm gà gầy nhanh và chết.
Gà đẻ bị bệnh thở khò khè do nhiều dịch nhầy đọng ở ống hô hấp trên. Gà hắt hơi, vảy mỏ, ho, chảy nước mắt, nước mũi. Bệnh tiến triển chậm, lúc đầu nước mũi loãng, sau đặc dần và đọng ở xoang mặt làm cho mặt gà sưng lên. Gà gầy nhanh rồi chết.
Tỷ lệ ốm của gà bị CRD có thể từ 20-50% phụ thuộc vào điều kiện vệ sinh phòng bệnh, nuôi dưỡng chăm sóc, tuổi gà. Tỷ lệ chết của gà con từ rất ít đến 30%, của gà đẻ thì chết không cao, những thiệt hại lớn là giảm đẻ, nhất là những đàn mới lên đẻ.
– Bệnh tích: Viêm toàn bộ đường hô hấp như: Khoang mũi, thanh khí quản và túi khí viêm có đọng những đám dày lên màu trắng vàng bã đậu như casein cứng rất điển hình. Gan bị phù bởi một lớp màng fibrin giả. Màng bao tim cũng viêm. . . Đôi khi còn có từng mảng bã đậu rơi ra khoang bụng. ở gà con có thớ bã đậu ở khí quản, phế quản, túi khí, hốc mắt, hốc mũi; giác mạc bị đục mờ và có những ổ áp xe ở khớp hàm. ở gà đẻ viêm mãn tính buồng trứng, thoái hoá nang trứng trước khi chín. Cần chú ý bệnh CRD này có thể xếp theo 3 dạng sau:
– Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính chính. Nguyên nhân bị bệnh là do căng thẳng (stress) lượng vi khuẩn Mycoplasma tăng làm phát bệnh, thường có kiêm nhiễm cả một số vi khuẩn thứ cấp như E.con, Streptococcus…
– Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính thứ cấp. Xuất phát từ gà đã bị bệnh khác như cầu trùng, viêm phế quản truyền nhiễm… làm cơ thể yếu đi, có dịp cho vi khuẩn Mycoplasma bùng lên sinh bệnh và là bệnh kế phát của bệnh khác.
– Bệnh viêm đường hô hấp mãn tính giả. Bệnh thể hiện triệu chứng bệnh tích ở túi khí của một số bệnh khác như bệnh Mycoplasmosis.
Gà bị bệnh này lâu chết, có khi tự khỏi. Thiệt hại chính là gà gầy sút nhanh, chậm lớn, khó phục hồi khi khỏi bệnh, sản lượng trứng giảm 10-40% .
Phòng bệnh: Thực hiện tốt quy trình vệ sinh thú y, chuồng thông thoáng, không ẩm thấp, mật độ nuôi vừa không quá chật, chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Trang trại nuôi gà bố mẹ sinh sản cần kiểm tra bằng phản ứng huyết thanh học và kiểm tra vi khuẩn theo định kỳ để có biện pháp phòng trị kịp thời. Một số nước đã sử dụng vacxin phòng bệnh.
Để ngăn không cho bệnh truyền dọc từ gà mẹ sang gà con có thể dùng kháng sinh liều cao cho đàn gà mẹ trước khi thu trứng ấp, không cho mầm bệnh theo trứng, nhúng trứng giống vào dung dịch kháng sinh, có thể tiêm kháng sinh vào lòng đỏ, buồng khí trước khi ấp. Thuốc phòng đặc hiệu là Tylosin cho gà dưới 1 tuần tuổi, tiêm dưới da khi gà mới nở, hoặc pha nước cho uống 3-5 ngày liên tục.
– Trị bệnh: Không có thuốc nào diệt hoàn toàn mầm bệnh CRD, chỉ ngăn cản bệnh phát triển. Khi có dịch cần tăng cường vệ sinh, chăm sóc nuôi dưỡng, bổ sung thuốc bổ vitamin A, D, B… Chữa bệnh bằng dùng một trong các loại kháng sinh sau:
+ Tylosin với liều 0,5-1 g/1ít nước cho uống trong 3-5 ngày liền.
+ Tiêm Tylosin dưới da với liều 20-25 mg/kg thể trọng (tức là cho 1 con gà lkg, nếu bé hơn, to hơn phải tính cho khớp liều thuốc).
+ Phối hợp 1 lọ S treptomycin ( 1 g) + 1 lọ Penicillin (500.000 đơn vị) tiêm cho 8-10 gà dò hoặc 4-5 gà lớn trong ngày, liên tục trong 4-5 ngày. Tiêm dưới da hoặc tiêm bắp từ 2-3 lần, mỗi lần cách nhau không trên 72 giờ.
+ Dinamutilin 45 với liều 1 g/1 ,8 lít nước cho uống trong 5 ngày.
+ Tetracyclin với liều 500-600 g/tấn thức ăn.
+ Furazolidon với liều 350-400 g/tấn thức ăn trong môi trường có tạp nhiễm E~coli, trong 5-7 ngày.
+ Tiêm Streptomycin 50 mg/kg thể trọng trong 3-4 ngày.
+ Chloramphenicol với liều 10 mg/kg thể trọng trong 3-4 ngày.
Thường dùng Tylosin + Streptomycin để tiêm chóng lành bệnh hơn. Nuôi gà Ri, Ri pha thả vườn thông thoáng chăm sóc tốt, lại có mật độ gà thưa và rất thưa trong cả vùng, cả thôn xóm nên có thể ít khi xảy ra bệnh này. Nhưng cần chú ý trời xấu, gió mùa, mưa rét là phải cho gà vào chuồng, cho ăn uống nuôi dưỡng tốt.
Bệnh viêm phế quản truyền nhiễm (infections bronchitis)
Chỉ có gà dễ bị bệnh này, do một coronavirus gây nên (có đến 20 loại serotype của loại virus này) khi có strees do lạnh và dinh dưỡng kém. Bệnh truyền qua tiếp xúc gà khoẻ với gà bệnh, hoặc qua không khí giữa các chuồng, giữa các trại, ủ bệnh 18-36 giờ.
– Triệu chứng: ở gà non: Há mồm ra thở, ho, hắt hơi, ran khí quản, dịch mũi chảy, mắt ướt, mắt sưng. Gà tụm lại dưới chụp sưởi ấm, xù lông, phân loãng, ăn ít, uống nước nhiều, sút cân. Bị bệnh lúc 1 ngày tuổi là có thể gây tổn thương cố định tới đường sinh dục dẫn đến giảm đẻ, trứng kém chất lượng. Gà lớn bị bệnh thì tổn thương ở ống dẫn trứng ít nghiêm trọng hơn, không có dịch mũi, có trường hợp không có triệu chứng lâm sàng (bên ngoài). Gà đẻ bên cạnh các bệnh lý hô hấp thì đẻ giảm rõ rệt, giảm tỷ lệ trứng giống, tỷ lệ ấp nở giảm, trứng vỏ mềm, dị dạng xù xì tăng cao. Gà lây lan bệnh rất nhanh, thường nhiễm cao đến 100%, tỷ lệ chết đến 25% hoặc hơn nữa ở gà non dưới 6 tuần tuổi và không đáng kể ở gà đã trên 6 tuần tuổi.
– Bệnh tích: ở gà non: Khí quản viêm ca ta có dịch nhầy màu đục có bã đậu ở trong khí quản và phế quản. Viêm phổi, thận sưng nhạt màu. ở gà lớn: Khí quản xung huyết màu hồng, dịch nhầy nhiều, túi khí có bọt. Gà đẻ có thể có lòng đỏ trứng vỡ trong xoang bụng.
– Phòng trị: Chưa có thuốc đặc trị, phải làm tốt các biện pháp quản lý dịch tễ, cách ly nghiêm ngặt, vệ sinh thú y mỗi khi thay đàn mới. Các bệnh kế phát do vi trùng gây ra thì dùng kháng sinh như Chloramphenicol, Tetracyclin, Neotesol và các loại vitamin bổ dưỡng. Phòng bệnh bằng tiêm vacxin (loại sống và vô hoạt) là hữu hiệu nhất. Vacxin nhược độc dùng cho ga non 2 lần, cách nhau 3-4 tuần.
Bệnh viêm thanh khí quản truyền nhiễm (infections laringo tracheitis – ILT)
Là bệnh truyền nhiễm cấp tính đặc trưng rất riêng cho gà ở triệu chứng bên ngoài và bệnh tích đường hô hấp, do một herpes virus gây ra. ở trong khí quản gà chết, virus có thể sống tới 22-24 giờ ở nhiệt độ 37oc và sống được 60 ngày ở 4-100C nhưng virus không sống được trên xác chết đã thối. Bệnh lan truyền qua đường hô hấp do hít virus lơ lửng trong không khí, thức ăn, nước uống nhiễm virus với thanh dịch và chất thải có virus từ gà bệnh. Người chăn nuôi, quần áo trang bị dụng cụ, xe cộ, chuột, dán đều có thể truyền bệnh. Bệnh không truyền qua trứng.
– Triệu chứng: ủ bệnh 4- 12 ngày. Gà bệnh cấp tính bị viêm kết mạc mắt (mắt đỏ), rất khó thở, nhịp thở ngắn nhất là lúc hít vào, gà tìm không khí để thở cấp bách bằng cách rướn cổ dài ra đằng trước, há mỏ rộng để thở, có tiếng khò khè, hắt hơi, ho. Khi gà lắc đầu, vẩy mỏ làm văng ra với những đám thanh dịch nhầy lẫn máu. Gà suy kiệt, mào tím, nằm phủ phục trên nền, đầu tì lên nền và chết rất nhanh do ngạt thở, thiệt hại đến 60% đàn, gà còn sống có thể bì mù. Gà có thể bị bệnh ở dạng nhẹ hơn, chỉ viêm kết mạc, thanh dịch hoặc xuất huyết mà không có triệu chứng đường hô hấp.
– Bệnh tích: Gà bị bệnh cấp tính thì ở miệng, mỏ, thực quản, thanh quản, khí quản tắc đầy dịch nhầy lẫn máu, có khi ống thanh quản, khí quản tắc đầy dịch màu vàng xám và máu, gây khó thở và chết ngạt, phổi có thể bị tụ huyết và phù thũng. ở thể nhẹ chỉ xung huyết nhẹ và lấm tấm xuất huyết ở thanh quản và 1/3 trên của khí quản.
– Phòng bệnh: Làm tốt vệ sinh phòng bệnh kết hợp sử dụng vacxin. Nhỏ vacxin cho gà con sau 4 ngày tuổi vào mắt, vào lỗ huyệt, hoặc cho uống. Tốt nhất là nuôi gà cùng lứa tuổi “cùng vào, cùng ra”.; Khi có. dịch phải bao vây nghiêm ngặt, giết những gà bệnh ở thể nặng cấp tính.
Bệnh nấm phổi (aspergillosis)
Bệnh do nấm Aspergillus fumigatus gây ra. ở không khí các bào tử nấm xâm nhập vào phổi và túi khí của gia cầm qua bụi hít vào từ mũi, khí quản, khi sức đề kháng giảm thì bệnh nặng lên. Bệnh lan truyền từ trong máy ấp do trứng nhiễm nấm, hoặc máy ấp bẩn, từ chất độn chuồng, thức ăn nhiều nấm.
– Triệu chứng: Gà ốm ủ rũ, kém ăn, khó thở, thở nặng nề, nhịp thở nhanh, thở gấp, phải ngồi để thở, nhưng đặc biệt là không nghe tiếng ran khò khè, ho, chảy nước mũi như ở một số bệnh đường hô hấp khác (IB, LTI, CRD…). Gà sốt, lờ đờ, chân khô, gầy. Bệnh phát đồng loạt và chết nhanh sau 1-2 ngày. Bệnh cấp tính thường ở gia cầm con đến 2 tuần tuổi. Thể bệnh mãn tính thì triệu chứng không điển hình.
– Bệnh tích: Phổi và màng phổi và có khi cả ở túi khí có những hạt lấm tấm màu vàng, xám nhờ nhờ có kích cỡ bằng đầu đinh ghim, bấm thấy cứng và dai, đó chính là các ổ nấm. Nhiều khi từ các ổ nấm này phát triển sang thanh quản, gan, ruột, não, có khi ở mắt. Trên túi khí và màng phúc mạc có dịch đục fibrin mủ tạo thành từng đám màu ghi vàng.
– Phòng bệnh: Chất độn chuồng sạch đảm bảo vệ sinh, không ẩm mốc, phun sulfat đồng sát trùng; Thức ăn, nguyên liệu thức ăn đều không kém phẩm chất, không mốc; Thường xuyên sát trùng kho trứng, máy ấp, dụng cụ chăn nuôi bằng dung dịch formol, sulfat đồng 1% hoặc fibrotan 2%.
– Trị bệnh : Loại gà gầy yếu, khó thở, khô chân. Có lúc phải loại cả lô gà Gà khỏi bệnh rất chậm lớn. Điều trị bằng sulfat đồng 0,1% và fibrotan 0,2% pha vào nước cho uống, bổ sung vitamin A.
Bệnh sổ mũi truyền nhiễm (infections Coryza)
Bệnh truyền nhiễm lây lan cấp tính, đặc trưng là ho, viêm đường hô hấp trên do vi khuẩn Haemophylus gallinarum gây ra. Gà 18-35 tuần tuổi dễ mắc bệnh nhất. Lây lan từ gà bệnh tiếp xúc với gà khoẻ, các thanh dịch mũi, mắt của gà bệnh gây nhiễm nước uống, thức ăn, chất độn chuồng, sân vườn cây cỏ.
– Trệu chúng: Thời gian ủ bệnh 1-5 ngày. Gà ốm chảy nước mũi, viêm kết mạc thanh dịch, bụi lẫn vào nước mũi bịt lỗ mũi, nước mũi đặc và đục dần có mủ, mùi hôi đặc trưng. Mũi tắc gà vẩy vẩy, lấy chân gây gây vùng mũi, dúi mỏ vào cánh để lau mũi làm Lẩn lông, há mỏ ra thở, mồm khô, có những mảnh màu vàng ghi đọng ở miệng dễ bong. ở hốc mắt bị đọng thanh dịch làm mắt sưng húp lên, mí khép lại. Gà ủ rũ, ăn uống ít, đẻ giảm. Bệnh này gây chết ít.
– Bệnh tích: Niêm mạc đường hô hấp trên và xoang mũi bị viêm ca ta, kết mạc và hạ bì vùng mắt và tích bị phù. Viêm lâu ở các khoang lỗ mũi, màng kết mạc tiết dịch có bã đậu, cần phân biệt với bệnh đậu ở thể ướt.
– Phòng bệnh: Nuôi dưỡng tốt, chuồng trại không chật quá, thoáng mát, đóng mở kéo rèm che chuồng kịp thời tránh thời tiết thay đổi đột ngột và gió lùa; Nuôi gà cùng lứa, vận chuyển gà vào lúc mát; Vệ sinh chuồng trại tốt.; Dùng vacxin phòng bệnh.
– Chữa bệnh: Dùng kháng sinh 5g Streptomycine + 2g Penicilline cho 50kg thể trọng gà, tiêm 2-3 lần, cách nhau dưới 72 giờ; Chloramphenicol O,4g/ lít nước hoặc 200-250 g/tấn thức ăn, dùng trong 4-7 ngày. Dùng kháng sinh cần bổ sung thêm các loại vitamin nhất là vitamin A.
Bệnh Lơ-cô (leukosis – Lymphoid leucosis)
Bệnh do virus nhóm cận họ Oncoviridae thuộc họ Retroviridae gây ra, phát triển tốt trên phôi gà và môi trường tế bào. Virus tồ14. Bệnh sổ mũi truyền nhiễm (infections Coryza)
Bệnh truyền nhiễm lây lan cấp tính, đặc trưng là ho, viêm đường hô hấp trên do vi khuẩn Haemophylus gallinarum gây ra. Gà 18-35 tuần tuổi dễ mắc bệnh nhất. Lây lan từ gà bệnh tiếp xúc với gà khoẻ, các thanh dịch mũi, mắt của gà bệnh gây nhiễm nước uống, thức ăn, chất độn chuồng, sân vườn cây cỏ.
– Trệu chúng: Thời gian ủ bệnh 1-5 ngày. Gà ốm chảy nước mũi, viêm kết mạc thanh dịch, bụi lẫn vào nước mũi bịt lỗ mũi, nước mũi đặc và đục dần có mủ, mùi hôi đặc trưng. Mũi tắc gà vẩy vẩy, lấy chân gây gây vùng mũi, dúi mỏ vào cánh để lau mũi làm Lẩn lông, há mỏ ra thở, mồm khô, có những mảnh màu vàng ghi đọng ở miệng dễ bong. ở hốc mắt bị đọng thanh dịch làm mắt sưng húp lên, mí khép lại. Gà ủ rũ, ăn uống ít, đẻ giảm. Bệnh này gây chết ít.
– Bệnh tích: Niêm mạc đường hô hấp trên và xoang mũi bị viêm ca ta, kết mạc và hạ bì vùng mắt và tích bị phù. Viêm lâu ở các khoang lỗ mũi, màng kết mạc tiết dịch có bã đậu, cần phân biệt với bệnh đậu ở thể ướt.
– Phòng bệnh: Nuôi dưỡng tốt, chuồng trại không chật quá, thoáng mát, đóng mở kéo rèm che chuồng kịp thời tránh thời tiết thay đổi đột ngột và gió lùa; Nuôi gà cùng lứa, vận chuyển gà vào lúc mát; Vệ sinh chuồng trại tốt.; Dùng vacxin phòng bệnh.
– Chữa bệnh: Dùng kháng sinh 5g Streptomycine + 2g Penicilline cho 50kg thể trọng gà, tiêm 2-3 lần, cách nhau dưới 72 giờ; Chloramphenicol O,4g/ lít nước hoặc 200-250 g/tấn thức ăn, dùng trong 4-7 ngày. Dùng kháng sinh cần bổ sung thêm các loại vitamin nhất là vitamin A.
.a tại được trong nhiều tháng ở 700C. Gà bệnh thải dãi rớt, phân làm lây bệnh, đặc biệt là gà con có thể bị nhiễm bệnh từ gà mẹ truyền qua trứng.
-Trệu chứng: Thời gian ủ bệnh rất lâu từ 3 tuần đến 9 tháng. Gà ốm gầy, da nhợt, ủ rũ, ỉa chảy, kém ăn, nhiều con bụng bị xệ, đi lại như dáng đi của chim cánh cụt. ở gan, nội tạng phát triển các khối u to có thể thấy được. Bệnh thường mãn tính, cũng có con bị cấp tính chết.
– Bệnh tích: Dạng lymphoid leucosis còn gọi là bệnh gan to, có khối u đặc trưng màu trắng như những cục mỡ bằng 2-3 hạt ngô, có ranh giới rõ rệt, thể tích gan tăng đột ngột 4-5 lần so với bình thường, bề mặt gan xù xì như kê hoặc thể tích tăng 1,5-2 lần. Các bộ phận khác như lách, thận, ruột, hệ lâm ba, túi fabricius đều có khối u phát triển làm cho gà chết.
+ Dạng erithroblastosis, còn gọi là bệnh máu trắng thường xảy ra ở gà trên 6 tháng tuổi. Ngoài triệu chứng bệnh trên, da gà nhợt nhạt có màu vàng bệch thấy rõ ở những chỗ không có lông, ỉa chảy.
+ Dạng mielocitomatosis hay mieloid leucemie leukosis. Triệu chứng bệnh này giống dạng erithroblastonis. Chỉ khác sự xuất hiện của các tế bào chất xám ở các cơ quan có tăng sinh gan có các hạt.
+ Còn dạng mielocitomatosis rất ít khi xảy ra và dạng osteopetrosis thường gọi là bệnh chân to, 2 ống bàn chân gà sưng to xù xì không đều.
– Phòng bệnh: Chưa có vacxin cho bệnh Leukosis; Thực hiện tốt chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, phòng bệnh, vệ sinh thú y. Nuôi và nhốt riêng từng loại gà, chọn nuôi gà bố mẹ khoẻ để lấy gà con làm giống. Khi phát hiện có bệnh phải chọn lọc hoặc thải hết những gà có triệu chứng lâm sàng, tăng cường vệ sinh thú y.
Bệnh nhiễm trùng máu do Echerichia coli (E.coli)
Mầm bệnh là một loài vi khuẩn Echerichia coli rất sãn trong các nguồn nước. Khi xâm nhập) vào cơ thể, vi khuẩn sống ở đường tiêu hoá và khi sức khoẻ giảm sút sức đề kháng yếu hoặc có sự tác động của một loại vi khuẩn hoặc virus khác nữa là E.coli gây bệnh. Bệnh phát ra nhanh, mạnh, tỷ lệ ốm chết cao. E.coli gây bệnh chủ yếu ở đường tiêu hoá và khi phát triển có số lượng lớn vi khuẩn thì nhiễm vào máu gây độc toàn thân.
– Triệu chứng: Gà con thường bị bệnh nặng, ủ rũ, bỏ ăn, sốt cao, ỉa chảy, phân trắng (dễ nhầm với bệnh bạch ly). ở gà lớn có triệu chứng nhưng không rõ rệt. Gà ốm, chết rải rác do kiệt sức, khi chết là rất gầy.
– Bệnh tích: Chủ yếu là viêm và xuất huyết gần như toàn thân: Dưới da, cơ, màng bụng, màng tim, gan, lách, các túi khí đục, có lúc chứa những sợi huyết (fibrin), hoặc chất bã màu vàng.
– Phòng bênh: Thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh thú y. Phải tạo nguồn nước sạch có tỷ lệ coli trong nước dưới mức quy định cho gà sống Khi có nghi ngờ nước kém tinh khiết phải pha thêm các dung dịch sát trùng, thuốc tím, kháng sinh v… ngôi gà thả thì sân vườn không để có các rãnh, hố nước đọng gà uống bẩn, mà phải có nước sạch cho gà uống.
Đíều trị : Các loại kháng sinh: Chloramphenicol 10%: 4 ml/1 lít nước, Tetracyclin: 400 g/tấn thức ăn. Bổ sung vitamin tổng hợp A, B.
Bệnh giun sán
Giun sán sống ký sinh ở đường ruột bằng các chất bổ dưỡng, giun sán càng nhiều lượng chất bổ dưỡng càng hao hụt làm cho gà thiếu dinh dưỡng trở nên gầy yếu, suy nhược, và có thể gây nên tắc ruột, tắc ống mật, thủng ruột do giun sán quá nhiều, gây thiệt hại khá lớn cho chăn nuôi.
Đàn gà có dấu hiệu chậm lớn, lông xù, thiếu máu, mào, mặt, chân nhợt nhạt, kém ăn, gà mái giảm đẻ là nghĩ đến có thể bị giun sán. Lấy phân gửi phòng thú y xét nghiệm ngay. Nếu là giun kim hay sán dây thì có thể quan sát bằng mắt được, thấy con giun hoặc đốt sán lẫn trong phân, nếu là giun đũa thì phải gỉn đến phòng chẩn đoán tìm trứng giun trong phân bằng kính hiển vi. Hoặc nhanh nhất là chọn con gà gầy yếu mổ khám, nếu bị giun thấy giun đũa hoặc các loại giun sán khác nằm nhiều trong ruột gà.
– Phòng bệnh: Đảm bảo vệ sinh thức ăn, nước uống sạch, nhất là chất độn chuồng phải khô ráo, phun thuốc sát trùng diệt côn trùng, mối, kiến, mạt các loại mang ấu trùng sán bằng sulfat đồng, dipterex, asuntol.
– Trị bệnh: Đối với giun đũa: Tẩy bằng Piperazin, liều 200-400 mg/kg thể trọng gà, hay trộn 0,2-0,4% vào thức ăn, pha 0,1-0 2% vào nước uống, hoặc Menvenbet với liều 60 g/tấn thức ăn, hoặc Tetramisol 40-60 g/tấn thức ăn, trộn cho ăn trong 1tuần liền. Tẩy giun kim thì dùng thêm Phenotiazin với liều 0,5 g/gà dùng 1 ngày hoặc có thể theo nơi sản xuất hướng dẫn. Tẩy sán: Loại đặc hiệu là thuốc Arecolin hoặc Bromosalạxilamit (liều theo nơi sản xuất hướng dẫn). Có thể dùng loại Butynorate kết hợp với Piperazin và Phenolthiazin.
Bệnh thương hàn
Bệnh do khuẩn Salmonella gallinarum và S.pullorum gây ra làm bại huyết, viêm dạ dày, ruột. Bệnh thường lây truyền sang đời con qua trứng: gà con từ trứng bệnh sau khi nở sẽ lây bệnh cho những con gà ấp chung máy và nhốt chung chuồng. Bệnh còn lây qua đường tiêu hoá, hô hấp.
Gà bị bệnh thường ủ rũ, kêu liên tục, tụ tập gần đèn sưởi, tiêu chảy phân trắng như vôi có lẫn máu, phân bết đít, bụng trễ xuống, mồng tái nhạt… gà đang đẻ giảm và ngưng hẳn.
Điều trị:
Thực hiện vệ sinh thú ý sạch sẽ, thường xuyên, phải định kỳ sử dụng kháng sinh phòngbệnh cho đàn gà. Sử dụng kháng sinh Enrofloxacina 1ml pha 4 lít nước uống hoặc Anflox 0,125g trộn 1kg thức ăn để phòng bệnh.
Khi gà có biểu hiện bệnh, sử dụng liều gấp đôi thuốc Anflox 0,25g trộn với 1kg thức ăn, cấp nước và chất điện giải cho đàn gà, pha 1 gói Oresol với 1 lít nước cho uống, tiêm trợ sức bằng Vitamin C, Vitamino P, Glucose…
Bệnh E.coli
Bệnh do vi trùng E.coli gây nên làm viêm ruột nặng. Bệnh xuất hiện với điều kiện vệ sinh kém, mật độ nuôi cao, stress, thời tiết xấu, thức ăn kém dưỡng chất… làm giảm sức đề kháng đàn gia cầm, khiến vi trùng E.coli vốn tiềm ẩn trong đường ruột phát triển gây bệnh…
Gà bị bệnh thường ủ rũ, xù lông, tiêu chảy nặng, phân màu vàng trắng, lông xung quanh đít bết lại. Gà đang đẻ giảm hẳn hoặc ngừng đẻ.
Điều trị:
Có thể điều trị bệnh như với bệnh thương hàn hoặc sử dụng kháng sinh như Ampicoli 1g pha với 1 lít nước cho uống.
Leave a Reply